Theo khảo sát của WIPO năm 2024, 77% quốc gia thành viên đã sử dụng GII trong quá trình xây dựng chiến lược, chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tăng hơn 20% so với năm 2022.
Tại Việt Nam, thời gian qua, Chính phủ đã giao Bộ KH&CN làm đầu mối theo dõi, điều phối chung chỉ số GII; đồng thời phân công các bộ, ngành, địa phương cùng trách nhiệm cải thiện chỉ số này. Nhờ vậy, xếp hạng GII của Việt Nam liên tục cải thiện, từ vị trí 59 (2016) lên 44 (2024) và giữ vững thứ hạng này trong năm 2025.
Tiến bộ về xếp hạng chỉ số GII của Việt Nam từ 2017 - 2025
Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN
Thứ hạng của các quốc gia khu vực ASEAN 2017 - 2025
Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 3 bậc so với năm 2023, từ vị trí 53 lên 50 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển của doanh nghiệp).
Đầu ra đổi mới sáng tạo vẫn có thứ hạng tốt hơn Đầu vào đổi mới sáng tạo dù thứ hạng giảm 1 bậc so với 2024, từ vị trí 36 xuống 37 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, Sản phẩm sáng tạo).
Việt Nam duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quốc gia thu nhập trung bình thấp xếp trên Việt Nam là Ấn Độ với thứ hạng 38.
Ngoài ra, có 3 quốc gia có thu nhập trung bình cao xếp trên Việt Nam là: Trung Quốc xếp hạng 10, Malaysia xếp hạng 34, Thổ Nhĩ Kỳ xếp hạng 43, còn lại tất cả các quốc gia xếp trên Việt Nam đều là các quốc gia có nền công nghiệp phát triển, thuộc nhóm thu nhập cao, tỉ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển/GDP cao. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam vượt lên trên Thái Lan, đứng thứ 3 sau Singapore và Malaysia.
Việt Nam là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất tính từ năm 2013
Trong Báo cáo GII 2025, WIPO ghi nhận Việt Nam là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất tính từ năm 2013 (gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Iran, Ma-rốc, Albania). Đặc biệt, Việt Nam cũng là một trong 2 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 15 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ và Việt Nam). Trong 15 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Việt Nam là một trong 3 quốc gia (Trung Quốc, Việt Nam, Ethiopia) có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhanh nhất giai đoạn 2014-2024.
Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới
Năm 2025, có 3 chỉ số Việt Nam tiếp tục đứng đầu thế giới là chỉ số Nhập khẩu công nghệ cao, Xuất khẩu công nghệ cao và chỉ số Xuất khẩu hàng hóa sáng tạo (đây là lần đầu tiên Việt Nam dẫn dầu thế giới chỉ số này). Có 3 chỉ số thuộc nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là Tốc độ tăng năng suất lao động (xếp hạng 4); Số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (xếp hạng 7) và Phần chi nghiên cứu và phát triển (NC&PT) do doanh nghiệp trang trải/tổng chi NC&PT (xếp hạng 8).
Các chỉ số đầu vào ĐMST của Việt Nam trong GII 2025 có cải thiện tập trung ở Trụ cột 1. Thể chế, Trụ cột 4. Trình độ phát triển của thị trường và Trụ cột 5. Trình độ phát triển của doanh nghiệp.
Một số chỉ số có cải thiện nổi bật: Chỉ số Sự ổn định của các quy định, chính sách về môi trường kinh doanh, tăng 14 bậc so với năm 2023, xếp hạng 28; Hiệu quả thực thi pháp luật, tăng 5 bậc, xếp hạng 67; Mức thuế quan áp dụng, bình quân gia quyền/tất cả các sản phẩm (%) tăng 28 bậc, xếp hạng 20; Mức độ đa dạng của sản xuất trong nước tăng 10 bậc, xếp hạng 13; Lao động nữ có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, % tổng lao động tăng 7 bậc, xếp hạng 81; Tỷ lệ đồng xuất bản các bài báo nghiên cứu có hợp tác viện trường – doanh nghiệp tăng 15 bậc, xếp hạng 51.
Về đầu ra ĐMST, cả Trụ cột 6. Sản phẩm tri thức và sáng tạo và Trụ cột 7. Sản phẩm sáng tạo đều có chỉ số cải thiện. Một số chỉ số có cải thiện đáng chú ý như Đơn đăng ký sáng chế PCT, tỷ PPP$ GDP tăng 17 bậc, xếp hạng 74; Tổng chi cho phần mềm máy tính, % GDP tăng 7 bậc, xếp hạng 56; Tính phức tạp của sản xuất và xuất khẩu, tăng 9 bậc, xếp hạng 52; Số chứng chỉ ISO 9001, tỷ PPP$ GDP tăng 4 bậc, xếp hạng 58; Mật độ tài sản vô hình, top 15, % tăng 3 bậc, xếp hạng 54; Số lượt chỉnh sửa mã nguồn gửi lên và nhận được trên Github, triệu dân độ tuổi 15-69 tăng 8 bậc, xếp hạng 48.
Bên cạnh đó, cũng còn một số chỉ số chưa cải thiện hoặc còn ở thứ hạng thấp cần tiếp tục được quan tâm như Thể chế (Chất lượng quy định pháp luật (xếp hạng 95), Hiệu quả thực thi pháp luật (xếp hạng 67); Giáo dục và đại học (Chi cho giáo dục, % GDP (xếp hạng 116, giảm 10 bậc), Tỷ lệ học sinh/giáo viên trung học (xếp hạng 107, giảm 5 bậc)).
Về cơ sở hạ tầng, nhóm chỉ số Hạ tầng công nghệ thông tin xếp hạng 69, cải thiện 3 bậc (do năm 2025 WIPO bỏ một chỉ số Việt Nam xếp hạng 71 trong nhóm này) nhưng các chỉ số Truy cập ICT xếp hạng 77, giảm 2 bậc; Sử dụng ICT xếp hạng 54, giảm 6 bậc. Nhóm chỉ số về Bền vững sinh thái xếp hạng 63, giảm 8 bậc.
Về Đầu tư, các chỉ số về đầu tư mạo hiểm chưa cải thiện, dẫn đến nhóm chỉ số về đầu tư giảm 12 bậc, xếp hạng 62; Tín dụng vi mô cho sản xuất kinh doanh xếp hạng 58, giảm 02 bậc. Về Sản phẩm tri thức và công nghệ, chỉ số Số công bố bài báo khoa học và kỹ thuật (PPP$GDP) xếp hạng 105, giảm 8 bậc; Tiền bản quyền tác giả, lệ phí, giấy phép, % tổng giao dịch thương mại xếp hạng 112, giảm 7 bậc; Xuất khẩu dịch vụ ICT, % tổng giao dịch thương mại xếp hạng 103, giảm 8 bậc.
Về Sản phẩm sáng tạo, ngành công nghiệp sáng tạo đã xuất hiện những chỉ dấu tích cực trong những năm gần đây nhưng một số chỉ số có thứ hạng thấp cần được cải thiện gồm chỉ số Xuất khẩu dịch vụ văn hóa và sáng tạo (% tổng giao dịch thương mại) xếp hạng 95 giảm 14 bậc; Phim truyện quốc gia được sản xuất/1 triệu dân độ tuổi 15-69 xếp hạng 87, giảm 11 bậc.