Trên tinh thần đó, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, tăng cường liên kết, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và viện nghiên cứu trở thành vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa quyết định đối với việc hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết. Việc hình thành các mô hình hợp tác mới, tiêu biểu là Liên minh Nhân lực chiến lược, được kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mới, phát huy thế mạnh của từng đơn vị, từng lĩnh vực, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng lực lượng chuyên gia trong lĩnh vực an toàn thông tin.
Từ yêu cầu và thực tiễn đó, Tọa đàm “Phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin chất lượng cao: xung lực thực thi Nghị quyết số 57”, với sự tham gia của PGS, TS. Lương Thế Dũng, Phó Giám đốc Học viện Kỹ thuật mật mã, đã chia sẻ những góc nhìn chiến lược về định hướng đào tạo, cách thức phát huy thế mạnh đặc thù của Học viện, cũng như cơ hội và thách thức, vai trò của liên kết, hợp tác trong việc hình thành đội ngũ chuyên gia trình độ cao, góp phần tạo “xung lực” quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 57.
.png)
Tọa đàm “Phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin chất lượng cao: xung lực thực thi Nghị quyết số 57”
Phóng viên: Thưa ông, Học viện Kỹ thuật mật mã gia nhập Liên minh Nhân lực chiến lược có ý nghĩa như thế nào đối với nhà trường trong việc thực hiện Nghị quyết 57 về xây dựng đội ngũ trí thức và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Việc Học viện Kỹ thuật mật mã gia nhập Liên minh Nhân lực chiến lược là một bước đi có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự chủ động, trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược của Học viện trong việc cụ thể hóa Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Hành động này mang lại ba ý nghĩa cốt lõi:
Thứ nhất, đây là cơ hội để Học viện hội tụ và phát huy tối đa thế mạnh đặc thù về đào tạo an toàn, an ninh thông tin vào mục tiêu chung của quốc gia về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực then chốt là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Liên minh tạo ra một cơ chế phối hợp liên ngành, liên cơ sở đào tạo, giúp hoàn thiện và nâng tầm chương trình đào tạo, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nhu cầu thực tiễn của các bộ, ngành và doanh nghiệp chiến lược.
Thứ hai, việc tham gia Liên minh giúp Học viện tiếp cận và chia sẻ nguồn lực một cách hệ thống, từ cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, chuyên gia đầu ngành đến các chương trình nghiên cứu chung. Điều này trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu về "làm chủ công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi" như Nghị quyết 57 đã chỉ ra, đồng thời xây dựng đội ngũ trí thức không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có tầm nhìn chiến lược và tinh thần phụng sự đất nước.
Thứ ba, đây là động lực để Học viện đổi mới mạnh mẽ công tác quản trị đại học và cơ chế hợp tác, tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp công nghệ trong sinh viên và giảng viên. Qua đó, góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57 về hình thành các doanh nghiệp công nghệ số chiến lược và phát triển nguồn nhân lực đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.
Phóng viên: Thời gian vừa qua, công tác đào tạo nguồn nhân lực an toàn thông tin của nhà trường đạt nhiều thành tích nổi bật. Liên tiếp là việc các đội tuyển sinh viên của Học viện ghi dấu ấn nổi bật tại các đấu trường quốc tế về bảo mật và an toàn thông tin. Theo ông, đây có phải là minh chứng cho thế mạnh đặc thù của Học viện trong việc đóng góp vào mục tiêu chung của Liên minh và việc thực thi Nghị quyết 57?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Hoàn toàn chính xác. Những thành tích xuất sắc của sinh viên Học viện gần đây trên các đấu trường quốc tế về an toàn, an ninh thông tin và lĩnh vực khác như BlockChain, trí tuệ nhân tạo (AI),... không chỉ là niềm tự hào của Học viện, mà còn là một minh chứng sinh động và thuyết phục cho thế mạnh đặc thù, truyền thống và chất lượng đào tạo của Học viện Kỹ thuật mật mã. Những thành tích này có ý nghĩa sâu sắc trong việc thực thi Nghị quyết 57:
Một là, khẳng định chất lượng nguồn nhân lực mà Học viện đang đào tạo đã tiệm cận trình độ khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng làm chủ công nghệ, sáng tạo và cạnh tranh - những yếu tố cốt lõi mà Nghị quyết 57 hướng tới.
Hai là, thành tích của sinh viên phản ánh hiệu quả của mô hình đào tạo gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết nền tảng với thực hành chuyên sâu. Đây chính là phương thức đào tạo mà Liên minh nhân lực chiến lược hướng đến: tạo ra những cá nhân xuất sắc, có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp, góp phần trực tiếp vào việc bảo đảm an ninh, an toàn thông tin - yếu tố sống còn của chuyển đổi số quốc gia.
Ba là, những tấm huy chương quốc tế chính là "thương hiệu" mạnh mẽ để Học viện đóng góp vào uy tín chung của Liên minh, thu hút sự hợp tác, đầu tư từ các đối tác trong và ngoài nước, đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ toàn quốc theo đuổi lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Như vậy, thế mạnh của Học viện đã và đang được phát huy đúng hướng, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược của Nghị quyết 57.
Thành tích quốc tế của sinh viên không chỉ tạo dựng uy tín cho Học viện mà còn góp phần lan tỏa, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho Liên minh và các Bộ, Ban ngành, địa phướng, các cơ quan, doanh nghiệp trong hệ sinh thái an toàn không gian mạng quốc gia.
Phóng viên: Xin cảm ơn ông. Liệu nguồn nhân lực an toàn thông tin chất lượng cao cho Nghị quyết 57 có gì khác so với nguồn nhân lực mà cơ sở giáo dục của nhà trường đang đào tạo?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Về tổng thể, mục tiêu đào tạo của Học viện đã gắn chặt với các yêu cầu của Nghị quyết 57. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phục vụ Nghị quyết 57 đặt ra yêu cầu cao hơn, sâu hơn và rộng hơn ở ba phương diện:
1. Năng lực làm chủ công nghệ lõi và công nghệ mới như an toàn trong AI, an toàn lượng tử, mật mã hậu lượng tử, ứng dụng AI trong an ninh mạng, phân tích dữ liệu lớn. Bên cạnh kiến thức chuyên sâu về an ninh, an toàn thông tin, nguồn nhân lực này cần có năng lực tích hợp liên ngành mạnh mẽ, am hiểu về AI, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, IoT,... để có thể thiết kế và vận hành các giải pháp an toàn, an ninh trong một hệ sinh thái số phức tạp, đa tầng.
2. Khả năng tham gia các nhiệm vụ chiến lược của quốc gia, bao gồm phòng thủ không gian mạng, phát triển hạ tầng số an toàn, làm chủ nền tảng trọng yếu.
3. Tư duy đổi mới sáng tạo, hội nhập, khả năng đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển (R&D) để làm chủ và tạo ra công nghệ cốt lõi là yêu cầu bắt buộc, đặc biệt là tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức bảo vệ bí mật nhà nước và bí mật cá nhân phải được đặt lên hàng đầu, cùng với đó là khả năng sẵn sàng tham gia mạng lưới trí thức, chuyên gia quốc tế.
Do đó, Học viện đang điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng tiếp tục củng cố nền tảng chuyên môn vững chắc, đồng thời bổ sung và đẩy mạnh các yếu tố về tầm nhìn chiến lược, năng lực tích hợp liên ngành, kỹ năng mềm và phẩm chất cần thiết để đáp ứng đúng và đủ yêu cầu của Nghị quyết 57, gắn chặt với nhu cầu của các Bộ, Ban ngành, địa phương và các cơ quan, doanh nghiệp trong triển khai chiến lược chuyển đổi số quốc gia.
Phóng viên: Theo ông, đâu là thách thức lớn nhất mà công tác đào tạo nguồn nhân lực an toàn thông tin chất lượng cao phục vụ Nghị quyết 57 của nhà trường phải đối mặt trong thời gian tới?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết 57, công tác đào tạo nguồn nhân lực ATANTT chất lượng cao của Học viện đứng trước nhiều thách thức, trong đó thách thức lớn nhất, xuyên suốt là đảm bảo tốc độ đổi mới và nâng cấp chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất có thể theo kịp và đi trước một bước so với tốc độ phát triển như vũ bão của công nghệ số và sự biến hóa không ngừng của các mối đe dọa an ninh mạng.
Cụ thể hóa thách thức này thành ba vấn đề cốt lõi:
Thứ nhất, thách thức về công nghệ và tri thức: Lĩnh vực ATANTT có chu kỳ đổi mới công nghệ cực kỳ ngắn. Các mối đe dọa như tấn công zero-day, phần mềm độc hại hay các công nghệ mới như lượng tử, Blockchain, AI xuất hiện liên tục. Việc cập nhật kịp thời nội dung giảng dạy, phương pháp đào tạo để sinh viên ra trường không bị lạc hậu là một áp lực rất lớn.
Thứ hai, thách thức về nguồn lực con người: Để đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hết cần có đội ngũ giảng viên, chuyên gia đầu ngành thực sự giỏi, am hiểu sâu cả lý thuyết lẫn thực tiễn, có kinh nghiệm nghiên cứu và xử lý sự cố phức tạp. Tuy nhiên, việc thu hút, đào tạo và giữ chân những giảng viên, nhà khoa học xuất sắc trong môi trường cạnh tranh khốc liệt về nhân lực công nghệ cao là một bài toán khó.
Thứ ba, thách thức về mô hình hợp tác và thực tiễn: Việc thiết lập và vận hành hiệu quả mô hình hợp tác "Nhà trường - Nhà nước - Doanh nghiệp - Viện nghiên cứu" (hay còn gọi là mô hình 4 nhà) để sinh viên được tiếp cận với các bài toán thực tế, các dự án nghiên cứu ứng dụng cấp quốc gia, và các công nghệ tiên tiến nhất đòi hỏi cơ chế phối hợp linh hoạt, minh bạch và cùng chia sẻ trách nhiệm.
Học viện ý thức rõ những thách thức này và xác định đây chính là động lực để đổi mới, sáng tạo, tăng cường hợp tác trong Liên minh và với các đối tác chiến lược để cùng tháo gỡ, tăng tốc đổi mới, phát huy lợi thế đặc thù trong lĩnh vực mật mã, ATANTT và đào tạo nhân lực chiến lược phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.
Phóng viên: Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực, Học viện sẽ định hướng hợp tác quốc tế như thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế trong việc đào tạo nguồn nhân lực an toàn thông tin chất lượng cao phục vụ Nghị quyết 57? Xin ông chia sẻ về điều này.
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao, Học viện xác định hợp tác quốc tế là trụ cột quan trọng. Chúng tôi mở rộng hợp tác với các trường đại học hàng đầu, các tổ chức quốc tế uy tín nhằm phát triển chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, xây dựng môi trường nghiên cứu hiện đại và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia. Việc đẩy mạnh trao đổi sinh viên, chuyên gia, cùng triển khai phòng thí nghiệm và các dự án nghiên cứu chung sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế Học viện trên trường quốc tế.
Phóng viên: Quay trở lại với mối quan hệ Liên minh. Việc Học viện Kỹ thuật mật mã tham gia Liên minh Nhân lực chiến lược thực thi Nghị quyết 57 sẽ tạo ra những cơ hội hợp tác nào giữa các trường trong việc đào tạo, nghiên cứu và phát triển nguồn nhân lực chiến lược?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Liên minh mở ra cơ hội rất lớn để các trường liên thông chương trình đào tạo, chia sẻ học liệu, phòng thí nghiệm, dữ liệu mô phỏng tấn công - phòng thủ mạng; phối hợp nghiên cứu công nghệ lõi và hình thành mạng lưới chuyên gia liên trường. Điều này tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần phát triển nguồn nhân lực chiến lược phục vụ chuyển đổi số và bảo vệ không gian mạng quốc gia.
Phóng viên: Sau khi ký kết Hợp tác, Học viện hiện đã triển khai cụ thể nào tại đơn vị và các trường trong mối Liên minh như thế nào để đảm bảo sự phối hợp hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu chung?
PGS, TS. Lương Thế Dũng: Sau khi ký kết hợp tác, Học viện đã chủ động triển khai nhiều nội dung trọng tâm: thiết lập đầu mối phối hợp; xây dựng kế hoạch hành động chung; cập nhật, chuẩn hóa chương trình đào tạo.
Chúng tôi cũng đang hướng đến việc chia sẻ học liệu và hạ tầng thực hành, đồng thời thành lập nhóm nghiên cứu chung và tổ chức các diễn đàn, hoạt động học thuật dành cho sinh viên, giảng viên các trường trong Liên minh. Những hoạt động này nhằm bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của Nghị quyết 57.
Phóng viên: Xin cảm ơn PGS, TS. Lương Thế Dũng đã dành thời gian tham gia chương trình ngày hôm nay!
